1. Tổng quan
Sốc nhiễm khuẩn là hậu quả của một tình trạng nhiễm trùng nặng, đây là tình trạng phổ biến trên toàn thế giới và với tỷ lệ tử vong cao. Trong nhiều năm, các biện pháp điều trị tích cực nhằm ngăn chặn sự tiến triển sốc nhiễm khuẩn đã được nghiên cứu và phổ biến trên toàn thế giới. Một trong những biện pháp là đưa chương trình điều trị sớm sốc nhiễm khuẩn theo gói (Sepsis Bundle), bao gồm hệ thống hóa chẩn đoán và điều trị, sử dụng kháng sinh sớm, xét nghiệm sớm: cấy máu, lactat, và đặc biệt là chú ý đến truyền dịch sớm. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã triển khai cho thấy việc điều trị sốc nhiễm khuẩn theo sepsis bundle làm giảm chi phí bệnh viện và giảm tỷ lệ tử vong rõ rệt.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện triển khai nghiên cứu điều trị sốc nhiễm khuẩn theo sepsis bundle tại Vinmec Times City từ tháng 4/2019 đến tháng 9 năm 2020. Đối tượng bệnh nhân: Các bệnh nhân có bằng chứng nhiễm trùng xuất hiện tình trạng sepsis tại khoa cấp cứu hoặc các khoa nội trú theo tiêu chuẩn sepsis và septic shock năm 2016 của surviving sepsis campaign.
- Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả can thiệp điều trị
- Tiêu chuẩn chọn người bệnh: các bệnh nhân có bằng chứng nhiễm trùng vào viện từ khoa cấp cứu được chẩn đoán sepsis bằng thang điểm qSOFA ≥2 hoặc các bệnh nhân nội trú được chẩn đoán sepsis bằng thang điểm SOFA≥2. Các bệnh nhân sepsis được phát hiện sớm tại khoa điều trị nội trú nhờ hệ thống RRT đã triển khai tại VInmec Times City
Chương trình RRT có vai trò quan trọng để hỗ trợ triển khai Sepsis Bundle
- Khi người bệnh đủ tiêu chuẩn, chẩn đoán xác định sepsis, tiến hành can thiệp điều trị theo gói sepsis bundle 1h như sau:
Sau khi điều trị can thiệp 1h đầu , nếu người bệnh tiếp tục diễn biến nặng có đủ 2 tiêu chuẩn: Lactat ≥2 kết hợp phải sử dụng vận mạch để duy trì huyết áp, Người bệnh được chẩn đoán sốc nhiễm khuẩn (septic shock) và được chuyển sang gói điều trị 6h.
3. Kết quả
Thu thập số liệu từ tháng 4/2019 đến tháng 9/2020, có 54 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn vào nhóm nghiên cứu. trong đó giới nam 54%, giới nữ 46%. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 72.2 tuổi, đây là độ tuổi tương đối cao. Các bệnh nhân được phát hiện trong tình trạng sepsis chủ yếu tại khoa cấp cứu chiếm 70%, còn lại được phát hiện tại các khoa điều trị nội trú chiếm 30%. Điều này cho thấy nhóm bệnh nhân vào cấp cứu do nhiễm trùng cộng đồng nhưng không được tiếp cận chăm sóc y tế sớm dẫn tới nhiễm trùng tiến triển nặng trở thành sốc nhiễm khuẩn. Tại các khoa nội trú mặc dù đã được chẩn đoán và điều trị kháng sinh, tuy nhiên tình trạng nhiễm trùng vẫn còn nguy cơ diễn biến nặng, đòi hỏi phải theo dõi sát nhằm phát hiện sớm sepsis và can thiệp kịp thời.
Người bệnh Sepsis được can thiệp tại khoa cấp cứu
100% người bệnh được can thiệp truyền dịch sớm theo tốc độ khuyến cáo 30ml/kg/3h, cụ thể tổng dịch truyền trung bình trong 1h: 948.6 ml/1h. Tuy nhiên số lượng dịch truyền không giống nhau trên tất cả bệnh nhân vì chúng tôi sử dụng siêu âm để đánh giá mức độ truyền dịch, cho kết quả nhu cầu dịch như biểu đồ sau:
Biểu đồ phân bố tổng lượng dịch truyền dựa trên đánh giá nhu cầu từ siêu âm tĩnh mạch chủ dưới.
100% người bệnh được cấy máu, cho kết quả cấy máu Dương tính đạt 40%. Từ đó cho kết quả nhận thấy chúng tôi dùng kháng sinh phù hợp đạt 80%. 100% người bệnh được sử dụng kháng sinh trong 1h đầu.
Sau 1h điều trị đủ 5 bước theo đúng sepsis bundle, kết quả 74% người bệnh sepsis hồi phục huyết động và ổn định được chuyển điều trị nội khoa thông thường. Còn lại 26% tiếp tục diễn biến nặng, chuyển thành septic shock đòi hỏi phải điều trị tích cực theo gói 6h.
Các kết quả thu thập đến cuối quá trình điều trị cho thấy: Tỷ lệ tử vong, Thời gian nằm viện ICU, thời gian thở máy và đặc biệt các biện pháp điều trị hồi sức can thiệp nặng được giảm đáng kể đem lại hiệu quả điều trị cải thiện rõ rệt
4. Kết luận
Việc sử dụng phác đồ điều trị sốc nhiễm khuẩn theo Sepsis Bundle trong 1 giờ đầu tiên cho thấy giảm tỉ lệ người bệnh Sepsis thành sốc nhiễm khuẩn, giảm tỷ lệ tử vong và thời gian nằm viện, nằm ICU, từ đó cải thiện rõ rệt hiệu quả điều trị đối với các bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng.